Ngự Sử đài – cơ quan giám sát quyền lực thời phong kiến, kỳ cuối: Gặp việc dám nói, đến vua cũng nể sợ

Ngự sử đài triều Lê – Đô Sát Viện từ thời vua Minh Mạng, được xem là là cơ quan giám sát tối cao của triều đình. Đứng đầu Ngự sử đài là Đô ngự sử, hàm ngang với Thượng thư các bộ (tương đương Bộ trưởng ngày nay).

Giữ phong hóa pháp độ

Ngự sử đài là cơ quan “giữ phong hóa pháp độ, chức danh rất trọng”. Điểm này, có thể thấy thực tế qua lời vua Lê Thánh Tông năm 1489, được Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại: “chức trách của ty Phong hiến là xét hặc, trước nay đã quy định là phải chia tách để trông coi thì rường mối mới hoàn chỉnh và thành nền nếp.

Kể từ nay, các ngươi, những nha môn trong kinh mà cáo giác nhân viên nào tham tang, phạm pháp và hết thảy việc công lợi hại thì do phần ty đó xét hỏi thi hành; nếu là ba ty bên ngoài trị lý dân chúng, khi phát hiện quan lại tham ô, hoặc có đơn khống tố về kiện tụng oan ức, cùng tất cả việc riêng tư xảy ra trong phủ, huyện, châu thì do phân ty các đạo xét xử thi hành”.

Đô ngự sử Bùi Xương Trạch nói: “Đài này là nơi rường mối của nước, tai mắt mọi người ở đó. Phải vô tư mới bắt bẻ người được, phải giữ mình đúng đắn mới chấp hành hiến pháp”.

Ngoài Ngự sử đài ở Trung ương, thời Lê sơ đặt thêm chức Giám sát Ngự sử ở 13 đạo với chức vụ được Lịch triều hiến chương loại chí cho hay là “xét hỏi các vụ kiện do Ngự sử đài duyệt lại lên quan bản đài xét xử và cuối năm trình bày về chính sự hiện thời”. Nhờ việc sắp đặt này, tạo thành một bộ máy có hệ thống hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương, giúp cho Ngự sử đài hoạt động hiệu quả hơn.

Hình minh họa

Hoạt động của các ngôn quan trong Ngự sử đài, được sự bảo vệ của pháp luật và vua Lê. Năm 1448, Giám sát ngũ hình Trình Duy Nhất để án kiện đọng nhiều bị ngôn quan hặc tội nhưng lại chống chế, biện bạch và kể tội ngôn quan, cho là họ bới móc cái xấu của người khác mà không biết sửa mình. Khi phân xử, vua Lê Nhân Tông phạt đánh 80 trượng, biếm chức 2 tư đối với Duy Nhất.

Không ngại đụng chạm

Do nắm giữ vị trí được xem là khó khăn, can gián cả vua, đàn hặc quan lại nên trong việc đặt người vào chức ngôn quan có sự chọn lọc kỹ càng với tiêu chuẩn cao. Một ngôn quan thời Lê sơ là Ngự sử trung thừa Phạm Du năm Bính Tý 1456 đã tỏ lòng: “Bọn thần lạm dự chức ngôn quan, không thể né sợ người quyền thế, cũng không thể im lặng không nói, làm đúng như lời dụ của bệ hạ”.

Đó là nhiệm vụ nói thẳng, nói thật, không sợ quyền thế, không sợ trách phạt, không sợ ngược ý bề trên và không bị danh lợi mua chuộc. Việt sử cương mục tiết yếu ngợi khen ngôn quan Phan Thiên Tước “gặp việc dám nói, đến vua cũng nể sợ”.

Trong thực tế cho thấy, khi thực thi nhiệm vụ, các ngôn quan phải đụng chạm tới những người có chức quyền cao hơn mình, nhưng không nhân nhượng, lùi bước. Từ lời hặc tội của Thị ngự sử Đinh Cảnh An và Nguyễn Vĩnh Tích năm Đinh Tỵ 1437 về sự chuyên quyền, lấn át cả vua Lê Thái Tông của Đại tư đồ Lê Sát mà sau đó Lê Sát bị xét xử và khép vào tội chết, cho thấy tiếng nói của ngôn quan có trọng lượng lớn đối với triều đình.

Thậm chí Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật vì lòng trung khi không thay đổi di chiếu dù mẹ nuôi Lê Tuấn (sau này là Lê Uy Mục) đút lót để mong Lê Tuấn được làm vua, sau bị hại nhưng vẫn là một tấm gương trung tín truyền cho đời sau.
Ngự sử đài đã phát huy tốt vai trò, chức trách của mình, nhiều vụ sai phạm được các ngôn quan phát hiện, tâu bày thẳng thắn để nhà nước phân xử, cũng như nhiều ngôn quan đã có lời nói thẳng khuyên can việc làm, chính sách bất hợp lý của vua Lê.

Thậm chí có trường hợp sẵn sàng từ chức như việc tháng 6 năm Giáp Dần 1434, Ngự sử phó trung thừa Nguyễn Thiên Hựu xin từ chức vì nói trái ý vua Lê Thái Tông, Thị ngự sử Nguyễn Vĩnh Tích vì lời tâu không được vua nghe theo đã xin nghỉ.

TS Nguyễn Thành Hữu

Theo Đời sống
back to top