Mối nguy hiểm do bệnh cơ tim giãn

(khoahocdoisong.vn) - Bệnh cơ tim giãn (BCTG) là bệnh lý của cơ tim không rõ nguyên nhân, có tiên lượng xấu tỷ lệ tử vong sau 5 năm là 35% và 70% sau 10 năm. Khoảng 50% bị đột tử do rối loạn tim.

Hậu quả của BCTG

BCTG là bệnh lý của cơ tim không rõ nguyên nhân, đặc trưng bởi sự giãn ra của các buồn tim và giảm khả năng co bóp của cơ tâm thất trái và/hoặc phải, tăng thể tích tâm thu, tâm trương, cơ tâm thất thường bị mỏng đi. Bệnh có tỷ lệ mắc khoảng 6 - 8/100.000 người. Bệnh cơ tim gồm bệnh cơ tim giãn, bệnh cơ tim phì đại và bệnh cơ tim hạn chế.

BCTG là bệnh lý của cơ tim không rõ nguyên nhân. Lứa tuổi thường gặp nhất là trung niên và thanh niên. Hầu hết bệnh nhân có độ tuổi từ 20 – 50. tuy nhiên, trong một số trường hợp bệnh xuất hiện ở trẻ em và người lớn tuổi. Bệnh gặp nhiều hơn ở nam giới với tỷ lệ nam/nữ là 3/1.

Các bệnh nhân thường tử vong do cơ tim giãn ra và giảm dần chức năng tâm thu và tâm trương dẫn đến suy tim ứ huyết nặng. Tuy nhiên, khoảng 50% bị đột tử do rối loạn nhịp tim. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỷ lệ tử vong của các bệnh nhân này sau 5 năm là 35% và lên đến 70% sau 10 năm theo dõi. Những phụ nữ bị bệnh cơ tim sau đẻ (bệnh cơ tim chu sản) thì thường có tiên lượng tốt hơn, có thể phục hồi chức năng tim hoàn toàn sau vài năm. Tiên lượng phụ thuộc vào việc phát hiện và điều trị bệnh sớm. Hiện nay, ghép tim là một giải pháp khá hiệu quả đối với những bệnh nhân bị BCTG có suy tim nặng không đáp ứng với điều trị nội khoa.

Bệnh cơ tim giãn.
Bệnh cơ tim giãn.

Phát hiện sớm sẽ mang lại hy vọng 

Các tổn thương cơ tim này do nhiều nguyên nhân không rõ ràng như yếu tố gia đình, yếu tố miễn dịch hay do virus. Những thay đổi về cấu trúc của cơ tim đã đưa đến những rối loạn huyết động như suy giảm nặng nề chức năng tâm thu và giãn tâm thất. Giảm cung lượng tim và thể tích nhát bóp. Giảm khả năng đáp ứng với gắng sức. Hở van hai lá và ba lá do giãn các buồng tâm thất.

Trong giai đoạn đầu, việc giảm thể tích nhát bóp có thể được bù bằng cơ chế tăng nhịp tim để đảm bảo lưu lượng. Tuy nhiên, lưu lượng tim không tăng khi gắng sức và gây ra triệu chứng khó thở. Có thể trong một thời gian dài các tâm thất bị giãn ra nhưng bệnh nhân không cảm thấy khó chịu gì. Đến giai đoạn sau cả lưu lượng tim và thể tích nhát bóp đều giảm. Thể tích tâm thu và tâm trương củ tâm thất tăng lên, giảm độ bão hòa oxy máu tĩnh mạch và kết quả là làm tăng chênh lệch về oxy máu giữa máu động mạch và máu tĩnh mạch. Tăng áp lực động mạch phổi và sức cản động mạch phổi từ từ do suy tim trái, giảm cung cấp máu thận, tăng tiết catecholamin và kích thích hệ thống renin-angiotensin-aldosterone do cung lượng tim thấp, do đó làm tăng sức cản ngoại biên lại càng làm cho cung lượng tim bị giảm đi nhiều hơn.

Các bệnh nhân bị BCTG thường có triệu chứng như khó thở, ho khan, đau ngực, phù chân, tiểu ít… các bệnh nhân thường có triệu chứng suy tim nặng giai đoạn 3 – 4. Tuy nhiên, khoảng 10% các trường hợp phát hiện ra bệnh là do tình cờ chụp X-quang tim phổi thấy bóng tim to hơn bình thường. Khám bệnh nhân thấy có các triệu chứng ứ trệ tuần hoàn ngoại viên như gan to, tĩnh mạch cổ nổi, phù chân hay toàn thân. Các triệu chứng suy tim trái như co ran ẩm ở phổi, huyết áp hạ...

Điều trị BCTG cũng tương tự như các bệnh nhân bị suy tim do nguyên nhân khác: ăn nhạt, dùng thuốc trợ tim, thuốc lợi tiểu, thuốc giãn mạch, các thuốc chống đông máu để phòng ngừa biến chứng tắc mạch. Một số dụng cụ có hiệu quả trong điều trị BCTG như máy tạo nhịp phá rung tự động có thể cấy được vào trong cơ thể, tạo nhịp ba buồng tim…

Phòng BCTG cũng như nhiều bệnh lý tim mạch khác là có một chế độ làm việc, dinh dưỡng và luyện tập thể dục thể thao hợp lý. Điều quan trọng là luôn kiểm soát được trọng lượng cơ thể, kiểm tra huyết áp, mỡ máu, đường máu và có một tinh thần thoải mái, tránh bị stress.

GS.TS Nguyễn Quang Tuấn (Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai)

Theo Đời sống
Hà Nội: Ca mắc rubella đầu tiên đã tiêm 2 mũi vắc xin phòng bệnh

Bệnh rubella nguy hiểm thế nào?

Rubella là bệnh truyền nhiễm do vi rút Alphavirust genus và Rubivirus genus gây ra. Bệnh rubella có tính lây truyền cao dễ gây thành dịch lớn và đặc biệt nguy hiểm với phụ nữ mang thai.
Bệnh dại lây qua đường nào?

Bệnh dại lây qua đường nào?

Đường lây bệnh dại phổ biến nhất là do bị động vật dại cắn, bên cạnh đó bệnh còn có thể lây từ nước bọt của chó, mèo dại hoặc động vật khác mắc bệnh do cào hoặc liếm vào vết thương, vùng da bị trầy xước của cơ thể.
back to top