Lợi nhuận ngân hàng tăng sẽ góp phần nâng hệ số tín nhiệm quốc gia

Trong Báo cáo tài chính năm 2020 và 6 tháng đầu năm 2021 của các ngân hàng thương mại, nội dung được dư luận quan tâm nhiều là lợi nhuận. Những con số nghìn tỷ lợi nhuận với mức tăng trưởng vài chục % so với cùng kỳ và gần đạt kế hoạch năm của một số ngân hàng đã khiến dư luận đặt câu hỏi: “tại sao doanh nghiệp khó khăn mà ngân hàng lãi lớn"?
     

Trao đổi với báo giới, ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, lợi nhuận của các ngân hàng cần được hiểu, nhìn nhận khách quan, toàn diện và ở nhiều góc độ. Đó là kết quả của cả một quá trình. Và lợi nhuận ngân hàng tốt sẽ kéo theo hệ quả là hệ số tín nhiệm của các ngân hàng tăng lên, qua đó góp phần nâng hệ số tín nhiệm quốc gia.

Những khoản “lợi nhuận khủng” của ngành ngân hàng luôn được truyền thông và dư luận quan tâm trong thời gian qua. Cần đánh giá thông tin này ra sao, thưa ông?

Nhìn nhận một cách tổng thể, thời gian qua, đặc biệt trong năm 2020 và 6 tháng đầu năm 2021, số liệu thống kê ghi nhận hoạt động của ngành Ngân hàng có bước khởi sắc, phần lớn tổ chức tín dụng đạt kết quả kinh doanh theo Nghị quyết đại hội đồng cổ đông đề ra. Kết quả trên bảng cân đối, số liệu quyết toán của tổ chức tín dụng đa phần ghi nhận các con số hoạt động kinh doanh hiệu quả.

Lợi nhuận được các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp so với mặt bằng xã hội là con số khá lớn nhưng nếu tính bình quân trên mặt bằng tổng tài sản, vốn điều lệ, các chỉ số tài chính như ROA, ROE… thì lợi nhuận của các tổ chức tín dụng không phải cao so với một số ngành, lĩnh vực khác.

Có thể khẳng định, lợi nhuận của các tổ chức tín dụng là kết quả của cả một quá trình và được tổng hợp từ nhiều yếu tố như: Cơ chế chính sách của Nhà nước được ban hành kịp thời (Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu), chủ trương, chính sách chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước trúng và phù hợp với thực tế hỗ trợ và tạo điều kiện cho hoạt động Ngân hàng; nỗ lực quyết liệt tái cơ cấu của tổ chức tín dụng; việc ngân hàng chủ động đầu tư sớm vào ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại với chi phí rất lớn trước đây nay đã thu được “trái ngọt”, vừa giúp khách hàng tiếp cận dễ dàng với dịch vụ, sản phẩm ngân hàng với nhiều tiện ích, vừa giúp ngân hàng tiết giảm chi phí hoạt động; nguồn thu từ thu nhập bất thường…

Theo tôi, lợi nhuận của ngân hàng đạt mức cao là điều đáng mừng, từ đó, các ngân hàng sẽ có thêm nhiều nguồn lực để hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ nền kinh tế.

Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt, đo đó, cần phải có những ứng xử và cách nhìn đặc biệt chứ không nên chỉ nhìn vào lợi nhuận của ngân hàng. Khác với các doanh nghiệp khác, lợi nhuận ngân hàng tốt sẽ kéo theo hệ quả là hệ số tín nhiệm của các ngân hàng tăng lên, qua đó góp phần nâng hệ số tín nhiệm quốc gia. Do vậy, trong bối cảnh đại dịch hiện nay, lợi nhuận ngân hàng cao phải được nhìn nhận là điều may mắn. Từ đó, ngân hàng mới có thêm nguồn lực để hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi.

Ngân hàng được xem là “huyết mạch” của nền kinh tế, tại sao khi kinh tế chịu tác động bởi đại dịch, tăng trưởng thấp, doanh nghiệp và người dân khó khăn thì ngân hàng vẫn đạt lợi nhuận lớn, thưa ông?

Ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng

Ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng

Lợi nhuận của ngân hàng cần phải được hiểu đúng, nhìn nhận khách quan, toàn diện ở các góc độ. Lợi nhuận ngân hàng có được từ nhờ các yếu tố sau:

Thứ nhất, bản thân các tổ chức tín dụng đã tự củng cố, nâng cao được năng lực quản trị, năng lực tài chính của mình. Đơn cử, năng lực tài chính được nâng cao thông qua biện pháp tăng vốn điều lệ. Gần như tất cả các tổ chức tín dụng đã tăng được vốn điều lệ để đảm bảo hệ số an toàn vốn (CAR) theo quy chuẩn quản trị rủi ro quốc tế Basel II. Nhiều ngân hàng trong nhiều năm liền không chi trả cổ tức cho cổ đông để dành nguồn lực vốn cho tương lai.

Thứ hai, các tổ chức tín dụng đẩy mạnh tiết giảm chi phí hoạt động. Nhờ sớm đầu tư thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại và tích cực cải cách thủ tục hành chính đã giúp các ngân hàng tiết giảm được rất nhiều chi phí hoạt động, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, những sự đầu tư này đã phát huy hiệu quả rất tốt, các tổ chức tín dụng có điều kiện tiết giảm chi phí huy động vốn đầu vào.

Thứ ba, khác với trước kia, nguồn thu của ngân hàng chủ yếu là từ thu lãi vay thì nay, tỷ lệ thu từ dịch vụ tại các tổ chức tín dụng đều gia tăng, có ngân hàng thu dịch vụ đóng góp tới 40% vào lợi nhuận (điều này phù hợp với xu thế quốc tế).

Thứ tư, quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng mang lại hiệu quả cao. Tới nay, 21 tổ chức tín dụng đã mua lại các khoản nợ đã bán cho Công ty Quản lý tài sản (VAMC), hoạt động trích lập dự phòng rủi ro cũng được tăng cường. Bên cạnh đó, sự ra đời của Nghị quyết 42 và hiệu quả trong điều hành kinh tế của Chính phủ đã giúp kinh tế tăng trưởng ổn định, những khoản nợ liên quan đến bất động sản, hoặc những bất động sản tồn đọng trước đây đều được xử lý nhanh và hiệu quả hơn. Đây là một trong những điểm quan trọng giúp phá tan băng “cục máu đông” nợ xấu, tạo điều kiện luân chuyển vốn trong nền kinh tế, giúp tăng tỷ lệ thu nhập bất thường ở các tổ chức tín dụng trong thời gian qua.

Thứ năm, bản thân các tổ chức tín dụng đã tích cực mở rộng hoạt động dịch vụ như ngân hàng đại lý, bảo hiểm và nhiều hoạt động khác giúp tăng thu nhập từ các hoạt động này.

Thứ sáu, sau hơn một năm tổ chức thực hiện Thông tư số 01/2020/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước quy định về việc các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ; miễn, giảm lãi, phí; giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19 đã giúp các tổ chức tín dụng tạm thời chưa phải trích lập dự phòng rủi ro nên cũng giảm được chi phí. Nếu trừ đi khoản này, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm mạnh.

Thứ bảy, lợi nhuận ngân hàng đang được tạm tính trên cả các khoản dự thu của khách hàng theo quy định hiện hành của pháp luật. Nếu khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng phải thoái thu, lúc đó sẽ không được ghi nhận vào lợi nhuận nữa.

Có thể khẳng định, lợi nhuận ngân hàng đến từ rất nhiều nguyên nhân và là kết quả kết tinh từ một quá trình nỗ lực lâu dài, trong đó có cả việc chịu sự dồn nén từ rất nhiều năm trước khi phải tích góp, thắt lưng buộc bụng để xử lý dự phòng rủi ro, đảm bảo đưa tỷ lệ nợ xấu xuống trong phạm vi cho phép và dành nhiều nguồn lực cho đầu tư công nghệ.

Như phân tích của ông thì lợi nhuận của ngân hàng hiện nay đến từ nhiều nguồn chứ không chỉ là do “ăn” từ chênh lệch lãi suất huy động với lãi suất cho vay, vậy chênh lệch lãi suất đầu vào với lãi suất đầu ra của tổ chức tín dụng hiện ra sao?

Nói lợi nhuận ngân hàng tăng do “ăn” chênh lệch lãi suất cao là hoàn toàn không chính xác. Thực tế cho thấy, chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra có doãng ra trong năm 2021 nhưng độ doãng ra đó hợp lý và phù hợp với thực tế (chênh lệch này chưa tính toán đến chi phí hoạt động và chi phí rủi ro) chứ không phải do ngân hàng lợi dụng việc giảm lãi suất đầu vào mà tăng hoặc giữ nguyên lãi suất cho vay.

Tỷ lệ vốn không kỳ hạn tăng thêm, chi phí giảm xuống, vốn điều lệ được bổ sung đảm bảo hệ số CAR là điều kiện cho ngân hàng giảm lãi suất. Nhưng việc giảm lãi cũng phải có bước đi, lộ trình phù hợp. Hiện tỷ lệ nợ trung và dài hạn tại các ngân hàng lên tới 40%. Do trước đây các khoản vay này đều có lãi suất cao, nên tới khi giảm lãi suất, bắt buộc phải thực hiện giảm từng bước (giảm dần) để đảm bảo tỷ lệ đủ bù đắp chi phí của tổ chức tín dụng.

Thực tế cho thấy, ngân hàng là doanh nghiệp hoạt động minh bạch nhất về chi phí xác định lãi suất đầu vào. Nếu doanh nghiệp vay lãi suất cao trong giai đoạn hiện nay cần phải xem lại hiệu quả của dự án? ngân hàng nào cho vay thì mức rủi ro rất lớn và phải chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình, do vậy không ngân hàng nào dám cho vay với lãi suất cao trong bối cảnh dịch COVID-19 đang diễn biến phức tạp như hiện nay. Tôi cho rằng mong muốn của ngân hàng là thu đủ gốc và lãi đủ bù đắp chi phí và sẵn sàng giảm lãi suất cho vay ở mức hợp lý.

Xin cảm ơn ông!

    
Theo congthuong.vn
back to top