Incretin trong điều trị đái tháo đường

(khoahocdoisong.vn) - Từ nhiều năm nay, người ta đã biết glucose dùng bằng đường uống sẽ kích thích tiết insulin nhiều hơn so với truyền tĩnh mạch. Sự khác nhau này là do vai trò của incretin. Incretin kích thích tụy tiết insulin, từ đó hạ glucose máu.

Incretin là gì ?

Incretin là những hormon dạng peptid, chúng được tiết vào máu chỉ vài phút sau khi thức ăn tác động lên niêm mạc ruột. Quá trình tiêu hóa thức ăn kích thích sự bài tiết một số incretin từ ruột non, các chất này làm tăng bài tiết insulin. Ở người, hai incretin chính là peptid amid giống glucagons-1 (GLP-1) và peptid hướng insulin phụ thuộc glucose (GIP). GLP-1 được tiết ra từ tế bào L ở hồi tràng và đại tràng, còn GIP được tiết từ tế bào K ở tá tràng. Hai chất này từng được biết đến như peptid ức chế của dạ dày.

Nồng độ GLP-1 trong tuần hoàn được kích thích bởi thức ăn giảm đi ở người bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2, trong khi nồng độ của GIP về cơ bản là bình thường. Như thế, các thuốc tác động lên incretin có thể cải thiện sự kiểm soát glucose huyết. Incretin bị chuyển hóa bởi dipeptidyl peptidase, vì vậy, nếu ức chế một cách chọn lọc men này sẽ làm tăng nồng độ incretin lưu thông. Cả hai loại incretin đều có tác dụng trên nhiều cơ quan của cơ thể, nhất là trên tụy nội tiết, trên ruột và trên não. Vai trò chính của chúng là giúp điều hòa sự ổn định về năng lượng, kích thích tụy tiết insulin thông qua vai trò của glucose, làm chậm với dạ dày và ức chế sự ngon miệng. Các tác dụng kết hợp này có lợi về mặt điều hòa glucose máu, đặc biệt kiểm soát glucose máu sau ăn. Những nghiên cứu sau này đã phát hiện thêm những tác dụng khác của incretin như cải thiện sự nhạy cảm của tụy đối với glucose, trên súc vật thí nghiệm còn thấy thúc đẩy tăng sinh tế bào bêta và giảm quá trình chết của tế bào bêta tụy.

Ứng dụng incretin với bệnh đái tháo đường

Lợi ích của incretin trong thực hành lâm sàng bệnh ĐTĐ được chú ý khi phát hiện tác dụng làm hạ glucose máu ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2. Thiếu phóng thích GLP-1 sau ăn làm tăng glucose máu ở bệnh nhân này do đáp ứng giảm tiết insulin sau ăn, tiếp đó là kém ức chế glucagon, thiếu ức chế sự ngon miệng. GIP kích thích sinh tổng hợp và góp phần quan trọng vào đáp ứng chung của incretin. Khả năng trị liệu tiềm tàng của nó đã được chứng minh bằng sử dụng các chất tương tự với chất ức chế men dipentidyl pentidase 4 (DPP-4). Tuy nhiên, GIP có thể có xu hướng làm tăng glucagon sau ăn. Những kết quả ghi nhận này mở ra một hướng mới trong chiến lược điều trị ĐTĐ týp 2 thông qua vai trò của hệ incretin.

Gần đây, nhiều chú ý được tập trung vào khả năng trị liệu tiềm tàng của GLP-1. Incretin tác dụng kích thích tiết insulin phụ thuộc vào sự hiện diện của glucose, GLP- 1 chỉ làm tăng tiết insulin trong trường hợp có tăng glucose máu. Đây là lợi điểm đáng kể trong điều trị do cơ chế tác dụng trên, thuốc không gây hạ glucose máu.

PGS.TS. Tạ Văn Bình-Viện trưởng Viện Đái tháo đường và rối loạn chuyển hóa

Theo Đời sống
back to top