Các bài thuốc điều trị cao huyết áp

(khoahocdoisong.vn) - Y học cổ truyền căn cứ vào mạch, triệu chứng và nguyên nhân để điều trị huyết áp tùy theo bệnh nhân, bệnh cơ để biện chứng luận trị với phương dược phù hợp.

Tự mình gây cao huyết áp

Y học cổ truyền thường căn cứ vào mạch, triệu chứng và nguyên nhân của bệnh cao huyết áp rồi dùng bài thuốc để điều trị (bệnh nhân, bệnh cơ, biện chứng luận trị, lý pháp phương dược).

Khi huyết áp lên cao thường biểu hiện các triệu chứng hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu (huyễn vựng), hồi hộp (tâm quý), mất ngủ, mệt mỏi, chân tay tê, đau mỏi lưng, gáy cứng, vùng ngực buồn bực phiền táo. Nếu nặng hơn nữa, công năng của tâm, não, thận, bị trở ngại sinh ra hôn mê, tai biến, đột quỵ.

Nguyên nhân chủ yếu của bệnh cao huyết áp là tình chí hư tổn, ăn uống không điều độ làm cho âm dương của can thận mất điều hòa. Can là tạng thuộc về phong mộc, sinh bởi thận thủy (thận thủy sinh can mộc), lo lắng, uất kết, tức giận, can âm hao tổn bất túc, lâu ngày thận thủy khuy hư không tư dưỡng được can, cho nên phát sinh bệnh cao huyết áp. Bởi vì biến động là ở can, còn nguồn gốc là ở thận. Can thận âm hư, can dương bốc lên, can phong nội động, chính là cơ chế chủ yếu phát sinh ra bệnh cao huyết áp.

Ngoài ra, có những người thường hay ăn cao lương mỹ vị, nhiều chất béo bổ hoặc dâm dục quá độ, lao lực quá mức. Đặc biệt, thường uống nhiều rượu, bia, ăn những thứ cay nóng mang dương tính và nhiệt tính cao. Đây cũng là một nguyên nhân tự mình gây nên bệnh cao huyết áp, mỡ máu cao, đái đường... Sách nói nhiệt cực sinh phong cũng là một trong những nguyên nhân nói trên.

Thuốc trị theo bệnh

Bài Thiên ma câu đằng ẩm: Nếu là can dương thượng kháng (cang) can phong nội động gây nên nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, tai ù, mất ngủ, thậm chí bán thân bất toại, lưỡi đỏ, mạch huyền sác. Trong những năm gần đây người ta thường dùng bài Thiên ma câu đằng ẩm để chữa bệnh cao huyết áp thuộc âm hư dương bốc lên mạnh.

Bài thuốc gồm: Thiên ma 9g, câu đằng 12g (cho vào sắc sau), thạch quyết minh 18g (sắc trước), sơn chi (chi tử) 9g, đỗ trọng 9g, tang ký sinh 9g, hoàng cầm 9g, xuyên ngưu tất 9g, dạ dao đằng 9g, chu phục thần 9g (cũng là củ bạch phục linh nhưng bên trong có lõi và điểm xuyết có màu hung hung). Trong bài thuốc, thiên ma, câu đằng, thạch quyết minh là chủ dược, bình can tiềm dương (ghìm giữ chân dương ở can), can phong nội động. Sơn chi, hoàng cầm thanh tiết can nhiệt để bình giáng can dương được thuận lợi. Xuyên ngưu tất hoạt huyết đồng thời dẫn huyết đi xuống để bình giáng can dương. Tang ký sinh, đỗ trọng tư dưỡng can thận cùng làm thuốc phụ trợ. Dạ giao đằng, chu phục thần ninh tâm an thần. Ích mẫu thảo hàng huyết khư trừ ứ tụ, cùng là tá dược. Các vị thuốc phối hợp tạo thành công hiệu thanh nhiệt bình can, tiềm dương tức phong. Tài liệu còn nói, theo nghiên cứu thực nghiệm, bài thuốc này có tác dụng giáng áp – hạ huyết áp.

Bài Trấn can” tức “phong thang: Hoài ngưu tất 30g, sinh địa giả thạch 30g (nghiền nhỏ), sinh long cốt 15g (giã nát), sinh mẫu lệ 15g, sinh quy bản 15g (giã nát), sinh hàng thược (bạch thược) 15g, xuyên luyện tử 5g (giã nát), sinh mạch nha 6g, nhân trần 6g, cam thảo 4,5g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang chia làm 2 lần.

Công năng: Trấn can tức phong chữa chứng nội trúng phong (cũng gọi là loại trúng phong). Mạch huyền trường hữu lực, hoặc thượng thịnh hạ hư, hay chóng mặt hoa mắt, đau đầu phát nhiệt, sưng mắt, ù tai, trong tâm phiền nhiệt, hay ợ hơi, chân tay cơ thể cảm thấy không tư nhiên, miệng mắt dần dần méo xệch, hoặc mặt đỏ như người say rượu rồi đột quỵ hôn mê ít lâu sau mới tỉnh lại, hoặc sau khi tỉnh không phục hồi được như trước, tinh thần giảm sút hoặc chân tay bại liệt như bỏ đi, hoặc bán thân bất toại (tê liệt nửa người).

Nếu trong tâm nhiệt nặng, gia sinh thạch cao (thạch cao để sống không nung qua lửa) 30g, đờm nhiều gia nam tinh chế 6g. Nếu mạch xích trọng án thấy hư, gia thục địa hoàng 24g, sơn thù du 15g. Đại tiện không thực (nhão, nát, lỏng), bỏ quy bản, đại giả thạch, gia xích thạch chi 30g.

Trong bài thuốc trọng dụng ngưu tất để dẫn huyết đi xuống, đánh thẳng vào dương can (dương thịnh), tư dưỡng được can thận. Đại giả thạch giáng khí trấn nghịch, bình can tiềm dương là vị thuốc làm quân. Long cốt, mẫu lệ tiềm dương giáng nghịch, quy bản, huyền sâm, thiên môn đông, bạch thược tư dương âm dịch, nhu nhuận tức phong là vị thuốc làm thần, cùng phối hợp giúp cho vị thuốc làm quân để chế ngự dương kháng (dương bốc lên). Còn tác dụng của nhân trần, xuyên luyện tử, mạch nha chủ yếu là hiệp trợ cho chủ dược để thanh triết hữu dư của can dương, điều đạt uất trệ của can khí để có lợi cho bình giáng can dương. Cam thảo điều hòa các vị thuốc, cùng phối hợp với mạch nha, cam thảo để hòa vỵ và điều trung, đều là thuốc làm tá, sứ, làm giảm thiểu cái tệ của vị thuốc kim thạch làm trở ngại cho vỵ. Các vị thuốc phối hợp dùng với nhau, tạo thành bài thuốc trấn can, tức phong.

TTND.Lương y giỏi Trần Văn Quảng (Hội Đông y Việt Nam)

Theo Đời sống
Khám sức khỏe định kỳ phát hiện u gan 10 cm

Khám sức khỏe định kỳ, phát hiện u gan 10 cm

Hơn 60% người ung thư gan liên quan đến mắc viêm gan B. Người mắc viêm gan B mạn thường thấy khỏe mạnh và không có triệu chứng. Do đó cần phát hiện kịp thời để ngăn ngừa các biến chứng suy gan, xơ gan, và ung thư gan.
Bệnh dại lây qua đường nào?

Bệnh dại lây qua đường nào?

Đường lây bệnh dại phổ biến nhất là do bị động vật dại cắn, bên cạnh đó bệnh còn có thể lây từ nước bọt của chó, mèo dại hoặc động vật khác mắc bệnh do cào hoặc liếm vào vết thương, vùng da bị trầy xước của cơ thể.
back to top