CA 19-9 giúp phát hiện sớm ung thư tụy

(khoahocdoisong.vn) - Rất khó phát hiện ung thư tụy giai đoạn sớm bằng triệu chứng hay chẩn đoán hình ảnh. Chất chỉ điểm CA 19-9 có thể giúp nhận biết sớm khối u khi còn nhỏ.

Nhiều chất chỉ điểm nhưng độ đặc hiệu thấp

Ung thư tụy giai đoạn sớm rất kín đáo, âm thầm, có thể có một vài triệu chứng không đặc hiệu: mệt mỏi, gầy sút mơ hồ không rõ lý do, buồn nôn, nôn khan, thiếu máu kín đáo, đôi khi viêm tắc tĩnh mạch chi dưới. Vì vậy, xét nghiệm tìm bệnh rất có ý nghĩa. Có rất nhiều chất chỉ điểm cho ung thư tụy đã và đang được nghiên cứu như: CA 19-9, CEA, CA 50, CAR-3, CA 72-4....

Tuy nhiên, trong các loại chất chỉ điểm được kể trên thì đa số không có độ tin cậy cao. CEA có độ nhạy thấp từ 24,5 – 42,9%. Nếu ở giai đoạn muộn thì độ nhạy cũng chỉ được 43%. Trong khi đó lại có độ nhạy cao hơn trong ung thư đại trực tràng và ung thư dạ dày. Một số loại ít được sử dụng trong ung thư như: CAR-3, CA 72-4, Dupan-2, CA 242 cũng có độ nhạy thấp từ 22,2 – 49%.

Có loại đạt được độ nhạy cao như TUM2-PK, CA 50, Span-1 có thể lên đến 81,3% nhưng độ đặc hiệu thấp vì tỷ lệ dương tính ở nhóm bệnh tụy lành tính cũng rất cao 64,3% và không có ý nghĩa trong chẩn đoán phân biệt giữa ung thư tụy với ung thư đường mật và ung thư gan.

K –ras là một loại gen ung thư (oncogene) thường xuất hiện trong huyết thanh bệnh nhân ung thư tụy với tỷ lệ cao 75% - 95%. Tuy nhiên, loại này lại không có sự liên quan với tình trạng tiến triển và di căn của bệnh, trong trường hợp đã có di căn thì chỉ có 57% là có xét nghiệm dương tính.

CA 19-9 biết cả ung thư và giai đoạn bệnh

Việc phát hiện ra CA 19-9 bởi kháng thể đơn dòng đã là một bước tiến mới, có giá trị đặc biệt với ung thư tụy. Chất chỉ điểm này không những được xác định trong huyết thanh mà còn trong dịch tụy và trong chất hút qua thành sinh thiết dưới hướng dẫn của siêu âm. CA 19-9 là một chất chỉ điểm khối u có giá trị hơn cả trong chẩn đoán ung thư tụy với độ nhạy từ 76 – 95% và độ đặc hiệu từ 53 – 95%. Giá trị dự đoán dương tính (PPV) từ 59 – 79% và giá trị dự đoán âm tính từ 52,9 – 94%.

Đặc biệt, trong chẩn đoán phân biệt giữa ung thư tụy và viêm tụy mạn, CA 19-9 có tỷ lệ chính xác là 83%. Tỷ lệ xét nghiệm dương tính trong viêm tụy mạn tính chỉ là 9% và không có trường hợp nào tăng trên 100 U/ml, có thể đạt 27% dương tính trong viêm tụy mạn tính và tỷ lệ dương tính ở các bệnh lành tính là 13%.

Hơn nữa, nghiên cứu cũng cho thấy, có sự liên quan giữa kích thước u với nồng độ CA 19-9. Tỷ lệ xét nghiệm dương tính tăng cao dần tương ứng với kích thước u như: < 3 cm; 3 – 5 cm và > 5cm có tỷ lệ tương ứng là 13%, 90% và 92%. Cùng với kích thước u thì ở bệnh nhân đã di căn xa có mức CA 19-9 cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân không có di căn xa. Nồng độ CA 19-9 tăng cao >1000 U/ml thấy ở 4% bệnh nhân không có di căn xa và 18% bệnh nhân có di căn xa. Mức CA 19-9 tăng > 1000U/ml thì thường đã có di căn gan. Ở giai đoạn I, III và IV có giá trị trung bình tương ứng là 18 U/ml, 215 và 585 U/ml.

Cũng cần lưu ý, mức CA 19-9 có thể tăng nhẹ trong một số bệnh lành tính như: viêm đường tiêu hóa, bệnh của gan hay đặc biệt là tình trạng tắc mật. CA 19-9 được đào thải theo mật, nên ngay cả những trường hợp ứ mật nhẹ cũng dẫn đến sự gia tăng CA 19-9. Chính vì vậy, trong những trường hợp có tắc mật thì giá trị ngưỡng để xét nghiệm được coi là dương tính có thể lên đến 500U/ml.

PGS.TS Triệu Triều Dương (Viện trưởng Viện tiêu hóa, Bệnh viện TƯ quân đội 108)

Theo Đời sống
Thói quen xấu làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông

Thói quen xấu làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông

Cục máu đông, hay còn gọi là huyết khối, nếu xảy ra trong mạch máu của các cơ quan trong cơ thể, nó sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro sức khỏe nguy hiểm và đôi khi có thể đe dọa tính mạng nếu không được điều trị kịp thời.
back to top